Hương vị của

Dày màng trong máu là không tốt bạn có thể di chuyển các bài học về sức khỏe cơ thể và thể chất của phụ nữ

"Máu xấu màng dày có thể loại bỏ?" Trong việc đánh giá khả năng chịu đựng của nội mạc tử cung, chúng tôi thường tập trung cao độ vào một loạt các chỉ số, chẳng hạn như độ dày của nội mạc, hình dạng (chẳng hạn như sự bội đạo ba chiều), tình trạng máu, tế bào phóng điện và sóng tuần hoàn. Tuy nhiên, cả nang, màng trong và toàn bộ quá trình sinh sản đều bị ảnh hưởng bởi hóc môn, và khả năng chịu đựng của màng trong liên kết chặt chẽ với hóc môn. Nhưng khi phân tích nội dung, chúng ta thường bỏ qua một số chỉ số hóc môn như prostaglandins. Bạn có thể hỏi: "liệu phụ nữ có chứa prostaglandins trong dạ dày không?" Nó liên quan thế nào đến khả năng chịu đựng của màng trong? Còn việc sinh nở thì SAO? Bài này sẽ cho bạn biết một phần quan trọng của vấn đề này, prostaglandin. 01 định nghĩa của prostatin từ năm 1930, khi nghiên cứu tinh dịch của con người và động vật, nhà khoa học yeuler đã nhận ra một chất hoạt động làm giảm huyết áp và kích hoạt cơ bắp. Ông cho biết chất này là do tuyến tiền liệt bài tiết và do đó được gọi là "prostaglandin". Với sự phát triển của y học, chất này được tìm thấy trong tinh trùng không phải từ tuyến tiền liệt mà từ tuyến nang tinh trùng. Nó không phải là độc quyền của đàn ông, nhưng phụ nữ cũng sản xuất ra prostaglandin. Dựa trên cấu trúc giống nhau, prostaglandin có thể được chia thành các loại A, B, C, D, E, F, G, H, I và nhiều loại khác nhau. Trong số đó, prostaglandin E2 và prostaglandin F2 là hai loại có ảnh hưởng lớn đến việc mang Thai của phụ nữ. Prostaglandins đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống sinh sản của phụ nữ, được thể hiện chủ yếu trong những khía cạnh sau: 1. Trong vùng dưới đồi và tuyến yên, prostaglandins tạo ra GnRH và LH. 2. trong buồng trứng, prostaglandin thúc đẩy sự phát triển nang trứng và tiết ra hóc môn tình dục, và tham gia xuất tinh, tạo thành cơ thể vàng và quá trình tan chảy. 3. màng nội mạc tử cung có thể tổng hợp prostaglandin, PGF2 a có thể gây ra sự giãn nở xoắn ốc tiểu động mạch nội mạc tử cung, đẩy mạnh kinh nguyệt, tăng cao có thể gây ra đau kinh nguyệt; 4. ống niêm mạc bao gồm prostaglandin, có thể điều chỉnh hoạt động của ống dẫn trứng, ảnh hưởng đến vận chuyển trứng. Vì vậy, dù lượng prostaglandin trong các buồng trứng, ống dẫn trứng, màng tử cung và máu nguyệt kinh là rất ít, nhưng hiệu quả của nó là rất mạnh mẽ, ảnh hưởng rõ ràng đến toàn bộ hệ sinh sản. Liên kết của prostaglandin với việc cấy ghép phôi Thai vào năm 2010, các nhà nghiên cứu Durn và những người khác đã nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm liêu học của Thai nhi và lớp cơ trong tử cung của phụ nữ không có Thai, và nhận ra 19 loại prostaglandin. Nghiên cứu thêm cho thấy PGE2 và PGF2 a trong dịch nội mạc tử cung có mối liên hệ mạnh nhất với việc cấy ghép. Vì thế, vào năm 2020, một số học giả đã đăng một nghiên cứu trong tạp chí "sinh sản và vô sinh" về mối quan hệ giữa lượng prostaglandin và việc mang Thai không đúng cách. Thiết kế thử nghiệm 03 nghiên cứu bắt đầu từ năm 2014 đến 2015, tổng số 18 nguyên nhân vô sinh không rõ ràng (UIF), 16 trường hợp sẩy Thai tái phát (RM), 15 trường hợp lặp đi lặp lại thất bại cấy ghép (RIF) bệnh nhân, và 23 trường hợp có khả năng sinh sản tốt hơn kiểm soát. Các nhà nghiên cứu thường xuyên thực hiện siêu âm âm cho các bệnh nhân để quan sát sự phát triển của nang. Sau khi giám sát sự rụng trứng, thu thập mẫu màng trong tử cung từ 19 đến 21 ngày để phân tích các đặc điểm của thời gian cấy ghép. Kết quả xét nghiệm 04 cho thấy 7 trong số 18 chất gây ra bệnh prostaglandins không được phát hiện trong mẫu nội mạc tử cung. Trong 11 chất prostaglandin được phát hiện, bệnh nhân bị sẩy Thai lặp đi lặp lại, nồng độ của thrombin TXB2 và 13, 14-dihydrogen-15-ketone PGF2 a là rất thấp so với nhóm kiểm soát khỏe mạnh, lên đến 858.70 pg/mg và 3907.30 pg/mg, khoảng cách có thể lên đến 6 đến gần 200 lần. Và số lượng TXB2 của những người được cấy ghép nhiều lần thất bại cao hơn rất nhiều so với nhóm kiểm soát. Vì thế, khi tập trung vào nội tạng, chúng ta cần tập trung vào hai yếu tố của prostaglandins: thrombin TXB2 và prostaglandins PGF2 a. Phương pháp 05 để làm giảm thrombotin TXB2 thrombotin A2 (TXA2) được tạo ra từ prostagantin PGH2 thông qua thrombotin tổng hợp enzym, và sau đó nhanh chóng chuyển thành chất chuyển hóa TXB2. Các cuộc nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân có tiền sử sẩy Thai thường cho thấy lợi thế của thrombotin trong nước tiểu trong khi lượng prostaglandin thấp hơn. Điều này cho thấy có một sự giảm đáng kể lượng máu đông trong môi trường nội mạc tử cung khi những người bị sẩy Thai lặp đi lặp lại mang Thai. Sự cân bằng giữa thrombotin và prostaglandins là quan trọng cho việc cung cấp cho phi chính phủ. Trong trường hợp sẩy Thai lặp đi lặp lại, thiếu truyền máu nghiêm trọng có thể gây ra cục máu đông, do đó, những bệnh nhân này được khuyến cáo dùng aspirin trước khi mang Thai để thúc đẩy quá trình biến đổi chất thrombotin thành prostaglandins. Nghiên cứu cho thấy rằng những bệnh nhân mang Thai sau thụ tinh trong ống nghiệm có nồng độ máu đông trong màng tử cung thấp hơn, phù hợp với kết quả của nghiên cứu này. Một số nghiên cứu cho thấy sự gia tăng của PGF2 a có thể gây ra sự co thắt bất thường trong tử cung, dẫn đến vô sinh. Đặc biệt là trong bệnh nhân của khối u cơ mural, ngay cả khi không có sự thay đổi trong hình thái tử cung, sự gia tăng của PGF2 a cũng làm giảm tỷ lệ mang Thai và tỷ lệ cấy ghép. Về mặt y học, việc sử dụng một số loại thuốc như piroxicam (chất ức chế của prostaglandin synthase) có thể tăng tỉ lệ trồng lên 50%. Ngoài ra, chất phôi cũng có thể thắt chặt các cơ phẳng của tử cung, làm giảm sự co thắt và đẩy phôi lên giường. Kích thích bằng điện từ các điểm kinh tuyến cũng được tìm thấy để ngăn chặn sự tiết ra của prostaglandin, và làm tăng khả năng dung nạp nội mạc tử cung. Do đó, ngoài việc dùng aspirin để hạ thấp nồng độ TXB2, những người bị sảy Thai lặp đi lặp lại cần phải giảm thêm mức PGF2 a, ngăn chặn sự co thắt quá mức để thúc đẩy việc implantation phôi Thai. Kết luận qua phân tích nói trên, chúng tôi nhận ra vai trò quan trọng của prostatin trong việc dung nạp nội mạc tử cung, và tìm thấy sự tăng bất thường của TXB2 trong các bệnh nhân bị sẩy Thai lặp đi lặp lại và việc cấy ghép lặp đi lặp lại thất bại. Hai loại hóc môn này là không thể thiếu trong việc tạo ra và phát triển Thai kỳ, nhưng ở mức độ phải phù hợp, và mức độ quá thấp có thể gây ra một loạt các phản ứng xấu. Do đó, đối với nhóm này, nên dùng aspirin một cách vừa phải trong quá trình cấy ghép phôi Thai để thúc đẩy việc cấy ghép phôi Thai và cải thiện khả năng dung nạp của màng trong. Trong khi đó, kết hợp các phương pháp khác như thuốc và các liệu pháp truyền thống để tăng tỷ lệ thành công của Thai kỳ.